Bệnh thối rễ là một trong những đối tượng dịch hại nguy hiểm và gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế cho vùng trồng vú sữa tập trung ở tỉnh Tiền Giang. Bệnh thường xuất hiện và gây hại nặng trên những vườn vú sữa già cỗi và kể cả đối với những vườn trong giai đoạn kiến thiết cơ bản làm sụt giảm đáng kể năng suất và thậm chí gây chết cây.
1. Triệu chứng
Triệu chứng khá phổ biến và điển hình cuả bệnh thối rễ trên cây vú sữa là cây còi cọc, kích thước lá bị thu nhỏ lại hay còn gọi “lá me”, tán lá thưa, có màu xanh xám, đôi khi lá trên một số cành bị rụng dẫn đến hiện tượng cây bị trơ cành và trái dễ bị héo xanh. Hệ thống rễ tơ (rễ mền) hay kể cả rễ thứ cấp đều bị bị thối nhũn, sau đó khô và hoá nâu. Ngoài ra, bệnh còn tấn công ở vị trí cổ rễ hay một số vị trí cục bộ trên rễ chính (nằm gần mặt đất) từ đó làm cho toàn bộ hệ thống rễ bị thối khô và hoá nâu, nếu phát hiện muộn thì sẽ rất khó phòng trị.
2. Tác nhân:
thối rễ do nhiều tác nhân gây ra như: nấm Fusarium solani, Fusarium oxysporium và Pythium helicoides; nứt khô cành do nấm Botryospaeria rhodia.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự phát sinh, phát triển của bệnh: Tuổi vườn khá cao; Bón phân không cân đối giữa các thành phần N, P và K. Đặc biệt vẫn còn sử dụng biện pháp bơm lùa và bón nhiều phân đạm để kích thích ra hoa sớm vụ; Sử dụng quá ít phân hữu cơ; Đất chua và bón quá ít vôi; Nông dân không biết nguyên nhân gây bệnh và biện pháp quản lý thiếu đồng bộ; Bệnh phát triển rất nhanh, khó phát hiện và do đó các biện pháp xử lý bệnh đều không đạt hiệu quả như mong muốn; Ngoài ra, thiết kế vườn chưa đúng kỹ thuật, ngập úng, thoát nước kém trong mùa mưa lũ và bồi bùn lên mặt líp quá dày,…cũng là những yếu tố góp phần làm cho bệnh trở nên trầm trọng.
Bệnh thối rễ, khô cành cây vú sữa do nhiều tác nhân khác nhau, những tác nhân này đều có nguồn gốc phát sinh từ đất do đó đòi hỏi phải áp dụng nhiều biện pháp quản lý tổng hợp thì mới đạt được hiệu quả. Ngoài ra, việc kiểm tra vườn thường xuyên để có thể phát hiện sớm bệnh từ đó có biện pháp quản lý bệnh kịp thời và hiệu quả.
3. Qui trình quản lý tổng hợp bệnh thối rễ, khô cành
3. 1. Giai đoạn sau thu hoạch
– Tiến hành vệ sinh vườn: thu gom lá khô trên mặt líp, trái bị nhiễm sâu bệnh, cắt tỉa cành sâu bệnh, cành vượt bên trong tán, cành ốm yếu.
– Tỉa cành, trẻ hoá những vườn cây vú sữa già cỗi, nhiễm bệnh thối rễ giúp cây hồi phục sinh trưởng nhanh và chất lượng trái được cải thiện. Nên tỉa cành để cây vú sữa phân bố cành đều theo các hướng và khống chế chiều cao không quá 4-4,5m. Đối với những vườn vú sữa già cỗi, cây bị nhiễm bệnh thối rễ thì tùy thuộc vào tuổi cây, mức độ nhiễm bệnh thì có thể tỉa 45-60% tán cây hoặc thấp hơn tỷ lệ này nhằm giúp sự cân bằng giữa tán cây và bộ rễ bị thối trong đất cũng như gia tăng chất lượng trái. Lưu ý, nên khử trùng vết cắt bằng thuốc trừ nấm có gốc đồng hoặc sơn công nghiệp để ngăn ngừa bệnh xâm nhiễm qua vết thương.
– Bón vôi cho toàn bộ vườn với liều lượng khoảng 5-10kg/ cây trưởng thành.
– Xử lý thuốc trừ nấm gây bệnh thối rễ: có 2 trường hợp xảy ra:
* Trường hợp cây thối hệ thống rễ thứ cấp (rễ tơ, rễ mền): Khi phát hiện hệ thống rễ bị thối tiến hành xử lý thuốc bằng cách xới nhẹ đất xung quanh tán cây, sau đó tưới một trong các loại thuốc trừ nấm có hoạt chất như: Fosetyl-aluminium, Mancozeb + Metalaxyl, Cuprous oxide, Benomyl theo liều lượng khuyến cáo, số lần tưới thuốc 3-5 lần/năm tùy vào tình hình diễn biến bệnh trên vườn. Nên tiến hành xử lý thuốc khi cây đang thu hoạch còn 10-20% số trái trên cây. Tưới đều dung dịch thuốc xung quanh tán cây, sau đó tưới nước liên tục 2-3 ngày để giúp thuốc hoà tan và thấm đều vào trong đất.
* Trường hợp cây thối rễ chính, cổ rễ: Trong trường hợp cây bị thối ngay vị trí cổ rễ, rễ chính nằm gần mặt đất thì phải cào đất ra cho lộ rỏ toàn bộ bộ phận rễ bệnh, cạo sạch vết bệnh và sử dụng cùng các loại thuốc nêu trên bằng cách pha đậm đặc theo tỷ lệ 1:1 (thuốc : nước) quét lên vị trí vết bệnh và tưới chung quanh vị trí này. Lặp lại nhiều lần (3-4 lần), mỗi lần cách nhau 7-10 ngày cho đến khi kiễm tra thấy vết bệnh hết thối. Sau xử lý thuốc, nên sử dụng vật liệu che đậy gốc (cỏ khô, mụn dừa,…) nhằm giúp rễ tơ mới mọc ra nhanh và tránh bị ánh sáng mặt trời tác động trực tiếp. Kết hợp rải thuốc trừ tuyến trùng đất (Diazinon, Fipronil, Cytokinin) theo liều lượng khuyến cáo trên bao bì, xử lý 1-2lần/năm hoặc nhiều hơn nếu đất bị nhiễm tuyến trùng nặng.
– Có thể tưới hỗ trợ các chế phẩm kích thích sinh trưởng bộ rễ nhằm gia tăng sự phát triển rễ mới ngay sau khi tưới thuốc hoá học khoảng 7-14 ngày. Tưới định kỳ 1-2 lần/tháng cho đến khi kiễm tra thấy cây ra rễ mới.
– Rải phân hữu cơ đã được ủ hoai với liều lượng 10-20kg/cây trưởng thành kết hợp với một số vi sinh vật có lợi Trichoderma, Streptomyces và Pseudomonas.
3.2. Giai đoạn chuẩn bị xử lý ra hoa:
– Xử lý ra hoa cho vú sữa khi cây đã trưởng thành, cho trái ổn định bằng phương pháp điều tiết nước và bón phân cân đối, hợp lý theo quy trình canh tác đã được khuyến cáo. Lưu ý không được bơm lùa và giữ nước trên mặt liếp quá lâu làm hư bộ rễ.
– Phun ngừa bệnh gây nứt-khô cành 1-2lần/đợt chồi cho toàn bộ tán cây bằng các loại thuốc trừ nấm có hoạt chất: Thiophanate-methyl, Fenbuconazole, Myclobutanil ở giai đoạn cây ra đọt, cành non, cành chuẩn bị chuyển sang bánh tẻ.
– Tiếp tục xử lý thuốc trừ bệnh thối rễ với các loại thuốc nêu trên.
3.3. Giai đoạn cây mang trái
– Tỉa bỏ bớt trái bị nhiễm sâu bệnh, tì vết, cành nhỏ mang quá nhiều trái. Lưu ý đối với những cây sau trẻ hoá thường mang nhiều trái do đó nên giữ một số lượng trái nhất định và chỉ để nhiều trái đối với cành trẻ hoá từ 36 tháng trở đi.
– Tiếp tục cung cấp thêm phân vô cơ theo quy trình canh tác và bón tăng cường phân hữu cơ hữu cơ ủ hoai/thương mại khoảng 2-5kg/gốc.
– Ở thời điểm bắt đầu thu hoạch quả thì nên duy trì chế độ tưới định kỳ và tưới vừa phải nhằm cung cấp đầy đủ nước cho cây trong giai đoạn mang nhiều trái.
– Ngoài ra, có thể xử lý bổ sung thuốc trừ bệnh thối rễ trong trường hợp kiễm tra vườn vẫn còn phát hiện rễ thối.
Nguồn : Viện cây ăn quả Miền Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét