Cây cũng có thứ thanh cao, có thứ tầm thường, có thứ nhã, có thứ tục nên hầu hết những người sành điệu đều chọn những cây có ý nghĩa thanh cao và có giá trị nghệ thuật để đưa vào chậu, chẳng hạn như sung, ngâu, nguyệt quới, mai vàng, khế, lựu… hoặc những cây mang tính trầm mặc, u tĩnh, tiêu biểu cho sự ẩn dật như sanh, si, gừa, bồ đề… Thời phong kiến, các bậc vua chúa còn phân chia cây cảnh ra làm nhiều thứ bậc: vua chơi cây trắc bá, quan đại thần chơi cây loan, nho sĩ chơi cây si và bậc phong lưu chơi cây liễu. Người chơi cây cảnh ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông. Lão Tử cho rằng “Đại khối trầm tĩnh vô ngôn”, một cây cảnh sống lâu năm cũng giống như một ông già minh triết đang trầm tư trước trời đất bao la. Vì vậy, người chơi cảnh rất thích băng rừng lội suối để săn tìm những dáng cây độc đáo, thân hình vặn vẹo, có gốc rễ ngoằn ngoèo, tượng trưng cho sự sống trơ trụi một mình giữa đỉnh hú mây ngàn mà vẫn hiên ngang vượt qua phong ba bão táp.
Mỗi người đều nhìn vẻ đẹp bằng cái tâm, bằng sự thể nghiệm, cũng như nhà văn Sơn Nam cho rằng cây cảnh đóng vai trò viên ngọc, cái đỉnh đồng. Nó gần gũi với con người và thơ mộng như một bài thơ siêu thoát, hiền lành. Có người say mê đến nỗi muốn thổi hồn vào từng gốc cây và trân trọng như gìn vàng giữ ngọc. Nhà thơ Cao Bá Quát cả đời chỉ bái phục có hoa mai “nhứt sinh đê thủ bái mai hoa”. Nguyễn Trung Ngạn coi mai hơn hẳn các loài hoa khác “Dã mai cốt cách nguyên phi tục”. Phan Kế Bính đã từng viết: “Nhàn cư vô sự”, lúc nhàn hạ ông cha ta tiêu khiển bằng cách đắp đá trồng cây để ký thác hoài bão, di dưỡng tính tình và giữ cho thần chí được k h o a n khoái. Cây cảnh có trăm ngàn cái đẹp, đẹp về hình thức lẫn nội dung, đặc biệt là ý nghĩa xã hội, nhưng cái đẹp thường là cái không thể cắt nghĩa được. Do đó nhà văn Sơn Nam đã viết: “Non bộ và cây cảnh bắt nguồn từ một triết lý, nói nôm na là một đạo nghệ, đạo nghĩa”. 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét